1 Na i te wha rau e waru tekau o nga tau o te putanga mai o nga tama a Iharaira i te whenua o Ihipa, i te wha o nga tau o te kingitanga o Horomona ki a Iharaira, i marama Tiwhi, ara i te rua o nga marama, ka timata ia te hanga i te whare o Ihowa.

2 Na, ko te whare i hanga nei e Kingi Horomona mo Ihowa, e ono tekau whatianga te roa, e rua tekau whatianga te whanui, a ko te tiketike e toru tekau whatianga.

3 Na, ko te whakamahau i te roro o te temepara o te whare, e rua tekau whatianga te roa, rite tonu ki te whanui o te whare; kotahi tekau whatianga te whanui i mua mai i te whare.

4 Na i hanga e ia etahi matapihi mo te whare, he tu arapaki mau tonu.

5 I hanga ano e ia etahi ruma ki te taha o te whare a whawhe noa, ki nga taha o te whare a whawhe noa, ki o te temepara, a ki o te ahurewa: na hanga ana e ia nga ruma ki te taha a whawhe noa.

6 E rima whatianga te whanui o to raro ruma, e ono whatianga te whanui o to waenganui, e whitu whatianga te whanui o te tuatoru: i whakapiritia hoki etahi pokohiwi ki waho o te whare a taka noa, kei whakaukia nga kurupae ki nga taha o te whare.

7 Na, ko te whare, i tona hanganga, he mea hanga ki te kohatu kua oti noa ake te whakapai, mai te rua kohatu: kahore hoki he hama, he toki ranei, tetahi mea rino ranei i rongona ki te whare i tona hanganga.

8 Ko te tatau o te paparanga ruma o waenga i te taha ki matau o te whare: he mea awhiowhio te arawhata i piki ai ki to waenga paparanga, ma roto atu i to waenga ki te tuatoru.

9 Heoi hanga ana e ia te whare a oti ake; he hita nga kurupae me nga papa i hipokina ai e ia te whare.

10 I hanga e ia he ruma ki nga taha katoa o te whare, e rima whatianga te tiketike; he hita nga rakau i tau iho ai aua ruma ki te whare.

11 Na ko te putanga o te kupu a Ihowa ki a Horomona, i mea ia,

12 Mo te whare e hanga nei e koe, ki te haere koe i runga i aku tikanga, a ka mahi i aku whakaritenga, ka mau hoki ki aku whakahau katoa, ka haere i runga i enei; katahi ka whakapumautia e ahau taku kupu ki a koe, taku i korero ai ki tou papa, ki a Rawiri.

13 A ka noho ahau i waenganui i nga tama a Iharaira, e kore ano e whakarere i taku iwi, i a Iharaira.

14 Heoi hanga ana e Horomona te whare a oti ake.

15 A i hanga e ia nga taha o roto o te whare ki te papa hita; no raro ake a tae noa ki nga papa hipoki, i whakapiritia e ia a roto ki te rakau: a i wharikitia a raro ki te papa kauri.

16 A e rua tekau nga whatianga o nga taha o te whare ki muri i hanga e ia ki te papa hita i raro a tae noa ki nga taha: i hanga ano ki te pera a roto, hei ahurewa, ara mo te wahi tino tapu.

17 A, ko te whare, ara ko te temepara i mua o te ahurewa, e wha tekau whatianga te roa.

18 A he hita i roto i te whare, he mea whakairo ki te rapupuku, ki te puawai kowhera: he hita katoa; kahore he kohatu i kitea.

19 I whakapaia ano e ia he ahurewa i te whare i roto atu, ki reira tu ai te aaka o te kawenata a Ihowa.

20 Na i roto i te ahurewa ko tetahi wahi, e rua tekau whatianga te roa, e rua tekau whatianga te whanui, e rua tekau whatianga te tiketike; a i whakakikoruatia e ia ki te koura parakore; i hipokina hoki te aata ki te hita.

21 Heoi whakakikoruatia ana a roto o te whare e Horomona ki te koura parakore: tataitia e ia he mekameka koura ki mua o te ahurewa, whakakikoruatia iho ki te koura.

22 I whakakikoruatia ano e ia te whare katoa ki te koura a oti noa te whare katoa: i whakakikoruatia katoatia ano e ia te aata, to te ahurewa, ki te koura.

23 A i hanga e ia mo roto i te ahurewa e rua nga kerupima, he oriwa te rakau, kotahi tekau whatianga te tiketike o tetahi, o tetahi.

24 A e rima whatianga tetahi parirau o te kerupa kotahi, e rima hoki whatianga tetahi parirau o taua kerupa; ko te pito o tetahi parirau a tae noa ki te pito o tetahi, tekau whatianga.

25 Kotahi tekau whatianga te rua o nga kerupima: kotahi te roa, kotahi te ahua o nga kerupima e rua.

26 Kotahi tekau whatianga te tiketike o tetahi kerupima: he pera ano te rua o nga kerupima.

27 A whakanohoia ana e ia nga kerupima ki to roto whare; i roha nga parirau o nga kerupima, a pa ana te parirau o tetahi ki tetahi taha, pa ana te parirau o tetahi ki tetahi taha; me te pa ano o raua parirau ki a raua i waenganui o te whare.

28 I whakakikoruatia ano e ia nga kerupima ki te korua

29 He mea tuhi ano nana nga taha katoa o te whare a tawhio noa, he kerupima nga mea i tuhia iho, he nikau, he puawai kowhera, ki roto, ki waho.

30 I whakakikoruatia ano e ia nga papa o raro o te whare ki te koura, o roto, o waho.

31 Na, ko nga tatau mo te kuwaha o te ahurewa, i hanga e ia ki te oriwa te rakau: i riro i te korupe me nga pou tatau, kotahi o nga wahi e rima o te patu.

32 Heoi hanga ana e ia e rua nga tatau, he oriwa te rakau; tuhia iho e ia, he kerupima nga mea i tuhia, he nikau, he puawai kowhera, whakakikoruatia ana e ia ki te koura; i tohaina iho ano e ia te koura ki runga ki nga kerupima, ki nga nikau.

33 Pera tonu tana hanga i nga pou mo te tatau o te temepara, he oriwa te rakau; ko te matotoru, ko te wha o nga wahi o te patu;

34 A e rua nga tatau, he kauri te rakau; he mea whakakopa nga taha e rua o tetahi tatau, a he mea whakakopa nga taha e rua o tetahi tatau.

35 I tuhia ano e ia he kerupima ki aua tatau, he nikau, he puawai kowhera; a whakakikoruatia iho ki te koura, he mea whakanoho iho ki runga ki te whakairo.

36 I hanga ano e ia to roto marae, e toru nga rarangi o te kohatu tarai; me te rarangi kurupae, he hita.

37 No te wha o nga tau i whakatakotoria ai te turanga o te whare o Ihowa, ko Tiwhi te marama.

38 A no te tekau ma tahi o nga tau, no marama Puru, ara no te waru o nga marama i oti ai nga aha katoa o te whare, ara nga mea katoa i whakaritea mona. E whitu nga tau e hanga ana ia i taua whare.

1 Xảy ra năm bốn trăm tám mươi, sau khi dân Y-sơ-ra-ên ra khỏi xứ Ê-díp-tô, là năm thứ tư của Sa-lô-môn trị vì trên Y-sơ-ra-ên, nhằm tháng Xíp, nghĩa là tháng thứ hai, thì người cất đền của Đức Giê-hô-va.

2 Cái đền mà vua Sa-lô-môn cất cho Đức Giê-hô-va, bề dài có sáu mươi thước, bề ngang hai mươi thước.

3 Cái hiên cửa ở trước đền bề dài hai mươi thước, bằng bề ngang của đền, và rộng mười thước ở trước đền.

4 Vua cũng làm cho đến những cửa sổ có song, khuôn cây.

5 Người cất những từng lầu, dựa vào vách từ phía đền, tức là dựa vào vách chung quanh đền thờ và nơi thánh; cũng làm những phòng chung quanh đền.

6 Từng dưới rộng năm thước, từng giữa rộng sáu thước; và từng trên rộng bảy thước, vì vua cất sụt lui các vách vòng ngoài nhà, đặng tránh sườn xà hoành đâm vào vách đền.

7 Khi cất đền, người ta dùng đá đã đẽo sẵn nơi hầm, nên không nghe tiếng búa, rìu hay là khí dụng khác bằng sắt tại nơi đền đương khi cất.

8 Cửa vào các phòng từng thứ nhì, ở bên phía hữu của đền; người ta đi lên từng giữa bởi một cái thang khu ốc; rồi từ từng giữa lên từng thứ ba.

9 Khi cất đền xong; thì Sa-lô-môn lợp nó bằng đòn tay và ván gỗ bá hương,

10 cũng cất những từng lầu năm thước dựa vào tứ phía đền, dính với nhà bởi cây đà bá hương.

11 Bấy giờ có lời Đức Giê-hô-va phán với Sa-lô-môn rằng:

12 về nhà này mà ngươi đương xây cất, nếu ngươi vâng theo các luật lệ ta, noi theo các mạng lịnh ta, giữ và đi trong hết thảy các điều răn của ta, thì ta sẽ vì ngươi làm hoàn thành lời ta đã hứa cùng Đa-vít, cha ngươi.

13 Ta sẽ ngự giữa dân Y-sơ-ra-ên, chẳng hề bỏ Y-sơ-ra-ên, là dân ta.

14 Ay vậy, Sa-lô-môn xây đền và làm cho hoàn thành.

15 Người lấy ván bá hương đóng vách phía trong đền, từ đất cho đến trần, và lót nền đất bằng ván cây tùng.

16 Từ cuối phía trong đền hai mươi thước, người đóng ngăn bằng ván bá hương, từ nền cho đến trần, đặng làm nơi chí thánh.

17 Còn bốn mươi thước kia, làm tiền đường của đền thờ.

18 Ở phía trong đền, có gỗ bà hương chạm hình dưa ác và hoa mới nở; toàn là gỗ bá hương, không thấy đá.

19 Còn nơi chí thánh, Sa-lô-môn đặt ở phía trong đền, tận cuối trong, đặng để hòm giao ước của Đức Giê-hô-va tại đó.

20 Phía trong nơi chí thánh có hai mươi thước bề dài, hai mươi thước bề ngang, bọc nó bằng vàng ròng, và cũng bọc vàng bàn thờ bằng cây bá hương nữa.

21 Sa-lô-môn bọc vàng ròng tuồng trong của nhà, và lấy xiềng vàng giăng trước nơi chí thánh và bọc bằng vàng.

22 Người cũng bọc vàng toàn cả nhà; người cũng lót vàng khắp mặt bàn thờ ở đằng trước nơi chí thánh.

23 Người làm cho nơi chí thánh hai chê-ru-bin bằng gỗ ô-li-ve, bề cao mười thước.

24 Cánh này và cánh kia của mỗi chê-ru-bin có năm thước, thế là mười thước từ chót cánh này tới chót cánh kia.

25 Chê-ru-bin thứ nhì cũng có mười thước. Hai chê-ru-bin đều đồng một cỡ và một dáng với nhau.

26 Chê-ru-bin này có mười thước bề cao, và chê-ru-bin kia cũng vậy.

27 Sa-lô-môn để hai chê-ru-bin tại nơi chí thánh, ở trong cùng của đền cánh của chê-ru-bin thứ nhất đụng nhau tại giữa nơi chí thánh.

28 Người cũng bọc vàng cho hai chê-ru-bin.

29 Bốn phía vách đền, phía trong và phía ngoài, Sa-lô-môn khiến chạm nổi lên hình chê-ru-bin, cây chà là và hoa nở;

30 cũng phủ đất nhà bằng vàng, bề trong và bề ngoài.

31 Tại chỗ vào nơi chí thánh, người làm một cái cửa hai cánh bằng gỗ ô-li-ve; thanh và cột choán một phần năm của mặt tiền.

32 Người khiến chạm nổi lên trên hai cánh cửa bằng gỗ ô-li-ve ấy những hình chê-ru-bin, cây chà là và hoa nở; rồi bọc bằng vàng, tráng vàng ra trên hình chê-ru-bin và hình cây chà là.

33 Về cửa đền thờ, người cũng làm cột bằng gỗ ô-li-ve, choán hết một phần tư của vách,

34 lại làm hai cánh cửa bằng gỗ tòng; mỗi cánh có hai miếng trá khép lại được.

35 Sa-lô-môn khiến chạm nổi lên những hình chê-ru-bin, cây chà là và hoa nở; rồi bọc bằng vàng, tráng vàng ra trên các vật chạm trổ.

36 Người xây tường hành lang phía trong bằng ba hàng đá chạm, và một hàng cây xà gỗ bá hương.

37 Năm thứ tư, năm tháng Xíp, cái nền của đền thờ Đức Giê-hô-va đã đặt;

38 năm thứ mười một, nhằm tháng Bu-lơ, nghĩa là tháng tám, đền thờ hoàn thành trong mọi phần nó, theo kiểu đã ra. Sa-lô-môn cất đền hết bảy năm.