1 但愿我的头是水井, 我的眼是泪的泉源; 我好为我同胞("同胞"原文作"人民的女子")中被杀的, 昼夜哭泣。(本节在《马索拉抄本》为8:23)
2 但愿我在旷野有一个旅客住宿的地方, 好使我离开我的同胞, 可以离他们而去; 因为他们都是行奸淫的, 是行诡诈之徒。(本节在《马索拉抄本》为9:1)
3 "他们弯曲舌头, 像弯弓一样; 在这地得势的是虚谎, 不是诚实; 因为他们变本加厉地作恶, 连我也不认识。"这是耶和华的宣告。
4 "你们各人要提防自己的邻舍, 不要信靠兄弟; 因为每一个兄弟都在欺骗人, 每一个邻舍都搬弄是非。
5 他们各人都欺骗自己的邻舍, 不说诚实话。他们训练自己的舌头说谎话, 竭力作孽, 以致他们不能回转(本句按照《马索拉抄本》意思难确定; 现参照《七十士译本》翻译)。
6 欺凌加上欺凌, 诡诈加上诡诈, 他们不肯认识我。"这是耶和华的宣告。
7 因此, 万军之耶和华这样说: "看哪! 我要熬炼他们, 试验他们; 因我子民("我子民"原文作"我子民的女子")的罪恶, 我还可以作什么呢?
8 他们的舌头是杀人的利箭, 嘴里说的是诡诈; 跟邻舍说话满口甜言蜜语, 心底里却设计陷害他。
9 我因这些事怎能不惩罚他们呢?像这样的国家, 我怎能不亲自报复呢?"这是耶和华的宣告。
10 我要为众山哭泣哀号, 为旷野的草场唱哀歌; 因为都已成为荒凉, 无人经过, 也听不到牲畜的叫声; 无论空中的飞鸟, 地上的走兽, 都逃走跑掉了。
11 "我要使耶路撒冷变成乱堆, 成为野狗的巢穴; 我要使犹大的城市荒凉, 无人居住。"
12 谁是智慧人可以解明这事?耶和华的口向谁说过, 以致他可以传讲这事?为什么这地被毁坏, 像旷野般荒凉, 无人经过呢?
13 耶和华说: "这是因为他们离弃了我摆在他们面前的律法, 不听从我的话, 没有遵行我的律法;
14 反而随从自己顽梗的心行事, 照他们列祖所教训的, 随从众巴力。"
15 因此, 万军之耶和华以色列的 神这样说: "看哪! 我要使这人民吃苦堇, 喝毒水。
16 我要把他们分散在列国中, 就是他们和他们的列祖都不认识的列国; 我要使刀剑追杀他们, 直到把他们灭绝。"
17 万军之耶和华这样说: "你们要思想, 要把唱哀歌的妇女召来, 把那些擅长哀哭的妇女请来;
18 叫他们赶快为我们举哀, 使我们的眼流下眼泪, 使我们的眼皮涌出泪水。
19 因为从锡安可以听到哀声, 说: ‘我们何等衰败! 我们多么羞耻! 因我们丢弃了这地, 我们的家园被拆毁了。’"
20 妇女们哪! 你们要听耶和华的话, 你们的耳朵要领受他口中的话; 要教导你们的女儿举哀, 各人要彼此学习哀歌。
21 因为死亡从窗户上来, 进入我们的堡垒; 要从街上剪除孩童, 从广场上剪除年轻人。
22 你要这样说(这是耶和华的宣告): "人的尸体横卧着, 像田野上的粪肥, 又像遗留在收割者后面的麦穗, 无人拾取。"
23 耶和华这样说: "智慧人不可夸耀自己的智慧, 勇士不可夸耀自己的勇力, 财主不可夸耀自己的财富。
24 夸口的却要因了解我, 认识我而夸口; 认识我是耶和华, 我在地上施行慈爱、公正、公义; 因为我喜悦这些事。"这是耶和华的宣告。
25 "看哪! 日子快到(这是耶和华的宣告), 我必惩罚所有只在身体受过割礼, 内心却未受割礼的人,
26 就是埃及、犹大、以东、亚扪、摩押和所有剃除鬓发, 住在旷野的人; 因为列国的人都没有受过割礼, 甚至以色列全家的内心也没有受过割礼。"
1 Oi! ước gì đầu tôi là suối nước, mắt tôi là nguồn lụy! hầu cho tôi vì những kẻ bị giết của con gái dân ta mà khóc suốt ngày đêm.
2 Oi! ước gì tôi có một cái quán khách bộ hành trong đồng vắng! để tôi được bỏ dân ta mà đi xa khỏi họ; vì họ thảy điều là kẻ tà dâm, ấy là một bọn quỉ trá.
3 Chúng nó giương lưỡi mình như cái cung, đặng phát lời dối trá ra. Chúng nó ở trong xứ là mạnh lớn, mà chẳng làm sự chơn thật; bởi chúng nó làm ác càng thêm ác, và chẳng nhìn biết ta, Đức Giê-hô-va phán vậy.
4 Ai nấy phải giữ gìn vì người lân cận mình, chớ tin cậy một người nào trong vòng anh em mình; vì mỗi người anh em sẽ lừa phỉnh anh em lắm, mỗi người lân cận đều đi dạo nói xấu.
5 Ai nấy gạt gẫm kẻ lân cận mình, chẳng nói sự chơn thật. Chúng nó luyện tập lưỡi mình mà nói dối, chăm chỉ làm điều ác.
6 Đức Giê-hô-va phán: Ngươi ăn ở giữa sự dối trá; ấy cũng vì cớ sự dối trá mà chúng nó chẳng khứng nhìn biết ta.
7 Vậy nên Đức Giê-hô-va vạn quân phán như vầy: Nầy, ta sẽ làm cho tan chảy và thử chúng nó; vì nếu chẳng vậy thì xử với con gái dân ta thể nào?
8 Lưỡi chúng nó là tên độc, hay buông lời dối trá. Ngoài miệng thì chúc bình an cho kẻ lân cận mình, mà trong lòng thì gài bẫy.
9 Đức Giê-hô-va phán: Ta há chẳng thăm phạt chúng nó về mọi điều ấy sao? Thần ta há chẳng trả thù một nước dường ấy sao?
10 Ta sẽ khóc lóc thở than về các núi, sẽ xướng bài ca sầu não về nội cỏ nơi đồng vắng, vì thảy đều bị đốt cháy, đến nỗi chẳng còn ai đi qua đó nữa. Tại đó chẳng còn nghe tiếng bầy súc vật, chim trời và loài thú đều trốn đi cả rồi.
11 Ta sẽ khiến Giê-ru-sa-lem thành đồng đổ nát, nơi ở của chó rừng; sẽ làm cho các thành của Giu-đa ra hoang vu không người ở.
12 Ai là người khôn ngoan đặng hiểu những sự nầy? và miệng Đức Giê-hô-va nói cùng ai, để người báo tin? vì làm sao xứ nầy bị diệt bị cháy như đồng vắng, đến nỗi không ai qua lại?
13 Đức Giê-hô-va đáp rằng: Ay là vì chúng nó bỏ luật pháp ta mà ta đã đặt cho; không vâng tiếng ta, và không bước theo.
14 Nhưng chúng nó bước theo sự cứng cỏi của lòng mình, theo các thần Ba-anh mà tổ phụ mình đã dạy.
15 Vậy nên, Đức Giê-hô-va vạn quân, Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên, phán như vầy: Nầy, ta sẽ cho dân nầy ăn ngải cứu, và cho uống mật đắng.
16 Ta sẽ làm cho chúng nó tan lạc trong các dân tộc mà chúng nó và tổ phụ mình chưa từng biết; ta sẽ sai gươm đuổi theo, cho đến chừng nào đã diệt chúng nó.
17 Đức Giê-hô-va vạn quân phán như vầy: Hãy lo gọi những đờn bà hay khóc mướn, cho chúng nó đến; hãy gọi những người đờn bà rất khéo, cho chúng nó đến.
18 Chúng nó hãy vội vàng vì chúng ta rơi lụy, mí mắt chúng ta tràn nước ra!
19 Vả, có tiếng phàn nàn nghe từ Si-ôn, rằng: Chúng ta bị hủy phá dường nào! Chúng ta bị xấu hổ lắm, vì chúng ta bỏ đất; vì họ đã phá đổ chỗ ở chúng ta!
20 Hỡi các đờn bà, hãy nghe lời của Đức Giê-hô-va, tai các ngươi hãy nghe lời miệng Ngài phán! Hãy dạy cho các con gái các ngươi bài ca vãn; mỗi người hãy dạy cho kẻ lân cận mình khóc than!
21 Vì sự chết đã lên vào cửa sổ chúng ta, đã sấn vào trong cung chúng ta, giết con cái tại ngoài đường, và kẻ trai trẻ giữa chợ.
22 Ngươi hãy bảo rằng: Đức Giê-hô-va phán như vầy: Thây người ta sẽ ngã xuống như phân đổ đồng ruộng, và như nắm lúa đổ ra sau lưng con gặt; chẳng ai sẽ lượm chúng nó lại!
23 Đức Giê-hô-va phán như vầy: Người khôn chớ khoe sự khôn mình; người mạnh chớ khoe sự mạnh mình; người giàu chớ khoe sự giàu mình.
24 Nhưng kẻ nào khoe, hãy khoe về trí khôn mình biết ta là Đức Giê-hô-va, là Đấng làm ra sự thương xót, chánh trực, và công bình trên đất; vì ta ưa thích những sự ấy, Đức Giê-hô-va phán vậy.
25 Đức Giê-hô-va phán: Nầy, ngày đến, bấy giờ ta sẽ phạt mọi kẻ chịu cắt bì mà lòng chưa cắt bì:
26 tức là Ê-díp-tô, Giu-đa, Ê-đôm, con cháu Am-môn, Mô-áp, và hết thảy những dân cạo tóc màng tang và ở nơi đồng vắng. Vì mọi dân tộc đều không cắt bì, còn cả nhà Y-sơ-ra-ên chẳng cắt bì trong lòng.