1 Gelin, RABbe sevinçle haykıralım, 2 Bizi kurtaran kayaya sevinç çığlıkları atalım,

2 Şükranla huzuruna çıkalım, 2 Ona sevinç ilahileri yükseltelim!

3 Çünkü RAB ulu Tanrıdır, 2 Bütün ilahların üstünde ulu kraldır.

4 Yerin derinlikleri Onun elindedir, 2 Dağların dorukları da Onun.

5 Deniz Onundur, çünkü O yarattı, 2 Karaya da Onun elleri biçim verdi.

6 Gelin, tapınalım, eğilelim, 2 Bizi yaratan RABbin önünde diz çökelim.

7 Çünkü O Tanrımızdır, 2 Bizse Onun otlağının halkı, 2 Elinin altındaki koyunlarız. Bugün sesini duyarsanız,

8 Merivada, o gün çölde, Massadafö olduğu gibi, 2 Yüreklerinizi nasırlaştırmayın.

9 Yaptıklarımı görmelerine karşın, 2 Atalarınız orada beni sınayıp denediler.

10 Kırk yıl o kuşaktan hep iğrendim, 2 ‹‹Yüreği kötü yola sapan bir halktır›› dedim, 2 ‹‹Yollarımı bilmiyorlar.››

11 Bu yüzden öfkeyle ant içtim: 2 ‹‹Huzur diyarıma asla girmeyecekler!›› Say.14:26-35; İbr.4:1-7).

1 Hãy đến hát xướng cho Đức Giê-hô-va, Cất tiếng mừng rỡ cho hòn đá về sự cứu rỗi chúng tôi.

2 Chúng tôi hãy lấy lời cảm tạ mà đến trước mặt Chúa, Vui mừng mà hát thơ ca cho Ngài.

3 Vì Giê-hô-va là Đức Chúa Trời rất lớn, Là Vua cao cả trên hết các thần.

4 Các vực sâu của đất đều ở nơi tay Ngài; Những đỉnh núi cũng thuộc về Ngài.

5 Biển thuộc về Ngài, vì chính Ngài đã làm nó; Còn đất khô, tay Ngài cũng đã nắn nên nó.

6 Hãy đến, cúi xuống mà thờ lạy; Khá quì gối xuống trước mặt Đức Giê-hô-va, là Đấng Tạo hóa chúng tôi!

7 Vì Ngài là Đức Chúa Trời chúng tôi: Chúng tôi là dân của đồng cỏ Ngài, Và là chiên tay Ngài dìu dắt. Ngày nay, nếu các ngươi nghe tiếng Ngài,

8 Chớ cứng lòng như tại Mê-ri-ba, Như nhằm ngày Ma-sa trong đồng vắng,

9 Là nơi tổ phụ các ngươi thử ta, dò ta, Và thấy công việc ta.

10 Trong bốn mươi năm ta gớm ghiếc dòng dõi nầy, Ta phán rằng: Ay là một dân có lòng lầm lạc, Chẳng từng biết đường lối ta;

11 Nhơn đó ta nổi giận mà thề rằng: Chúng nó sẽ chẳng hề vào sự yên nghỉ ta.